Chủ Nhật, 17/08/2025

Cải cách bộ máy nhà nước: ‘Bệ phóng’ cho tăng trưởng bền vững

Theo PGS.TS Nguyễn Thường Lạng – Viện Thương mại và Kinh tế Quốc tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, nếu được tổ chức lại trên cơ sở tư duy mới và vận hành theo nguyên lý thị trường, bộ máy nhà nước sẽ trở thành “bệ phóng” quan trọng cho một nền kinh tế tăng trưởng bền vững ở mức cao.

Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành mạnh mẽ các cải cách thể chế, việc sắp xếp lại bộ máy hành chính được kỳ vọng sẽ góp phần giải quyết những điểm nghẽn lâu nay về hiệu năng điều hành, cải thiện môi trường kinh doanh và phân bổ lại nguồn lực phát triển. Việc tổ chức lại hệ thống này không đơn thuần chỉ là sáp nhập hay tinh giản đầu mối, mà cần đi kèm với tư duy quản trị hiện đại, minh bạch, có năng lực phục vụ doanh nghiệp và người dân như một “chính phủ kiến tạo”.

Trả lời phỏng vấn với VietnamFinance, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng chia sẻ góc nhìn về cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, nếu được tổ chức lại theo cách thức phù hợp – có thể trở thành một động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế bền vững, giúp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm tới.

Nền tảng cho tăng trưởng và phát triển quốc gia

Ở góc nhìn của một chuyên gia, ông đánh giá như thế nào về mối quan hệ giữa bộ máy nhà nước và tăng trưởng kinh tế?

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng: Theo quan điểm của tôi, bộ máy nhà nước là thiết chế đóng vai trò quản lý, điều hành toàn diện một đất nước, một xã hội. Nó vận hành nhằm hiện thực hóa các mục tiêu lớn như: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, hội nhập quốc tế, nâng cao uy tín quốc gia, v.v. Có thể nói, bộ máy nhà nước mang trong mình một sứ mệnh rất cao cả.

Để hoàn thành được sứ mệnh đó, bộ máy phải thực sự vận hành thông suốt. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh, bộ máy cần “trơn tru”, có hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Tức là phải tinh gọn, giảm chi phí vận hành, tránh rườm rà, tiết kiệm thời gian cho người dân, cho doanh nghiệp, đồng thời phát huy tối đa các tiềm năng phát triển.

Nếu không có bộ máy nhà nước, xã hội sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ – không có trật tự, không có định hướng rõ ràng, không thể huy động và phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả. Còn nếu bộ máy tồn tại nhưng không đáp ứng kỳ vọng – tức là cồng kềnh, kém hiệu quả – thì không chỉ nguồn lực bị lãng phí, mà uy tín của đất nước trên trường quốc tế cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Tôi cho rằng, một bộ máy hành chính có hiệu lực, hiệu năng và hiệu quả cao luôn là chỗ dựa vững chắc cho sự vận động của toàn xã hội – từ hệ thống doanh nghiệp, người dân cho đến các đối tác quốc tế.

Thậm chí, một bộ máy vận hành tốt còn có thể tạo động lực cho đất nước “vươn mình, cất cánh” nhanh hơn. Nó thúc đẩy phát triển bền vững, tạo ra những bước đột phá. Do đó, các vai trò như dẫn dắt, bảo vệ, xây dựng, kiến tạo và phát triển cần phải được phát huy tối đa trong vận hành của bộ máy nhà nước.

Trong quá trình phát triển của Việt Nam, bộ máy nhà nước đã có những cải cách quan trọng nào góp phần tạo đà cho tăng trưởng kinh tế, thưa ông?

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng: Từ góc nhìn lịch sử, có thể nói rằng ngay từ khi thành lập vào năm 1945 với bản Hiến pháp năm 1946, nước ta đã xây dựng được một bộ máy nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông Nam Á – một nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bộ máy ấy được tổ chức để phụng sự triệt để lợi ích của nhân dân, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – người kiến tạo nên nền tảng nhà nước kiểu mới tại Việt Nam.

Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, chính bộ máy nhà nước đã đóng vai trò dẫn dắt nhân dân trong sự nghiệp giải phóng hoàn toàn đất nước và từng bước đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc Đổi mới, nhà nước cũng đã thể hiện vai trò tiên phong khi mạnh dạn cải cách, chuyển từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, nhà nước tiếp tục là công cụ đặc biệt quan trọng để phục vụ lợi ích của nhân dân một cách hiệu quả. Nhìn lại suốt chặng đường dài phát triển, có thể khẳng định nhà nước là một trong những nhân tố – thậm chí là nhân tố quyết định – mọi thắng lợi của cách mạng và sự nghiệp phát triển qua các thời kỳ.

Sau gần 40 năm chuyển đổi sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với tác động mạnh mẽ từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhà nước Việt Nam đang bước vào một giai đoạn cải cách sâu rộng. Từ mô hình quản lý hành chính theo lối mệnh lệnh, thủ công, bộ máy đang chuyển mạnh sang mô hình dựa trên công nghệ hiện đại: trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), dịch vụ công trực tuyến, quản trị không giấy tờ (paperless), v.v.

Một điểm đặc biệt quan trọng trong cải cách bộ máy nhà nước lần này là tinh giản một cách mạnh mẽ, có thể giảm đến một nửa ở nhiều cấp – từ trung ương đến địa phương. Việc bỏ cấp hành chính huyện – vốn được xem là không thể thay đổi trong suốt nhiều năm qua – là một bước đột phá chưa từng có. Đồng thời, việc cắt giảm số lượng cán bộ, đơn giản hóa thủ tục hành chính cũng góp phần tạo ra chi phí giao dịch và chi phí vận hành hành chính thấp nhất từ trước đến nay.

Đây chính là tiền đề để cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, rút ngắn thời gian, giảm chi phí cho người dân và doanh nghiệp, tối ưu hóa quy trình, đồng thời nâng cao năng lực vận hành của con người – không chỉ về mặt thực chất mà còn thông qua khả năng ứng dụng công nghệ. Sự cộng hưởng giữa năng lực con người và nền tảng công nghệ tiên tiến sẽ tạo nên một hệ sinh thái vận hành hiệu quả cao.

Từ đó, một mô hình nhà nước mới đang dần hình thành – một nhà nước kiến tạo phát triển trên nền tảng hệ sinh thái công nghệ, tối thiểu hóa chi phí và thủ tục, tối ưu hóa hiệu quả và hiệu lực vận hành. Theo tôi, đây là một đợt sóng cải cách mạnh nhất từ trước đến nay, và cũng là bước sóng quan trọng mở ra kỷ nguyên vươn mình mới của nền kinh tế Việt Nam.

Không chỉ là tinh giản bộ máy, mà là tái cấu trúc tư duy vận hành

Theo ông, đâu là những “điểm nghẽn” hiện nay trong bộ máy nhà nước đang kìm hãm phát triển kinh tế?

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng: Theo tôi, khi nói đến bộ máy nhà nước hiện nay, cần nhìn nhận trên ba khía cạnh cơ bản. Thứ nhất là cơ cấu tổ chức hành chính; thứ hai là quy trình vận hành; và thứ ba là hệ thống luật pháp và quy định mà chính bộ máy đó đã đặt ra. Cả ba yếu tố này, ở thời điểm hiện tại, đều đang tồn tại những vướng mắc nhất định.

Về mặt pháp luật và quy định, hiện chúng ta vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Đặc biệt, nhiều đạo luật chưa theo kịp với tốc độ phát triển nhanh của công nghệ. Có những đạo luật tuy được ban hành đúng đắn nhưng khả năng thực thi chưa đạt kỳ vọng – do liên quan đến trình độ cán bộ, quy trình vận hành và cả các điều kiện bảo đảm đi kèm. Một số quy định rất tốt trên giấy, nhưng khi áp dụng vào thực tế thì vẫn gặp khó khăn – đây là điều cần được nhìn nhận nghiêm túc.

Thứ hai, về quy trình vận hành, có thể thấy chúng ta mới chỉ bước vào giai đoạn tái sắp xếp bộ máy chưa đầy một tháng, kể từ ngày 1/7. Tổng thể thì hướng đi là đúng đắn, nhưng khi đi vào chi tiết, vẫn còn nhiều việc cần xử lý. Mỗi địa phương có xuất phát điểm khác nhau: nơi này triển khai tốt nhờ chuẩn bị kỹ lưỡng, nơi khác lại gặp vướng mắc vì thiếu điều kiện, năng lực hoặc do yếu tố văn hóa, đặc thù địa phương. Chính điều đó khiến việc hình thành một quy trình thống nhất, khoa học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thứ ba là về cơ cấu bộ máy. Việc tinh giản bộ máy thời gian qua là một bước tiến rất đáng ghi nhận – chúng ta đã cắt giảm được cấp huyện, giảm gần một nửa số đơn vị cấp tỉnh, tinh gọn cả cấp xã. Nhưng câu hỏi đặt ra là: như vậy đã đủ tốt chưa? Về mặt số lượng thì rõ ràng đã đơn giản hơn, nhưng chất lượng dịch vụ công có được cải thiện tương ứng hay chưa thì vẫn cần kiểm chứng. Ví dụ, nếu trước đây người dân mất một tiếng để hoàn tất thủ tục, nay chỉ còn 5 phút, thì cần có số liệu, phản hồi để đánh giá thực chất mức độ cải tiến đó đã đạt đến đâu.

Tôi cho rằng, cả ba yếu tố – luật pháp, quy trình và bộ máy – đều đang tồn tại những điểm nghẽn, dù không còn lớn như trước, nhưng vẫn là những rào cản đáng kể. Tuy nhiên, đây là điều hoàn toàn dễ hiểu, bởi chúng ta đang thực hiện một cuộc cải cách chưa từng có trong lịch sử. Những mô hình, phương thức mới bao giờ cũng gặp khó khăn trong giai đoạn đầu.

Điều đáng mừng là chúng ta đã nhìn ra được các điểm nghẽn, thấy được cả nguyên nhân và tác động. Nhờ đó, tôi tin rằng từng bước, từng phần, chúng ta sẽ khắc phục được – dù không thể làm trong một sớm một chiều. Khi khắc phục được các rào cản, đồng thời phát huy tốt những yếu tố thuận lợi, chúng ta sẽ từng bước hình thành nên một hệ sinh thái hành chính mới – hiện đại, văn minh, phục vụ nhân dân một cách tận tụy và vô điều kiện.

Một bộ máy hành chính hiệu quả cần có những nguyên lý tổ chức như thế nào để phục vụ tốt hơn cho phát triển kinh tế và phục vụ người dân, doanh nghiệp, thưa ông?

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng: Theo tôi, khi bàn về nguyên lý tổ chức và vận hành của bộ máy hành chính nhà nước, có thể rút ra một số nguyên tắc cốt lõi – được đúc kết từ cả lý luận và thực tiễn trong suốt quá trình cải cách thời gian qua.

Trước hết là nguyên lý tinh gọn. Đây là yếu tố đầu tiên và nền tảng. Một bộ máy hành chính phải được thiết kế sao cho tối giản về tổ chức, loại bỏ những tầng nấc trung gian không cần thiết, nhằm giảm chi phí vận hành và tăng tính linh hoạt trong điều hành.

Nguyên lý thứ hai là minh bạch. Tính minh bạch không chỉ giúp người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận thông tin, mà còn là cơ sở để kiểm soát quyền lực, nâng cao trách nhiệm giải trình trong toàn bộ hệ thống công quyền.

Nguyên lý thứ ba là hiệu quả. Tức là bộ máy phải thực sự tạo ra giá trị, phục vụ tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp. Hiệu quả ở đây được đo bằng chất lượng kết quả, mức độ hài lòng của đối tượng phục vụ và đặc biệt là chi phí xã hội thấp nhất để đạt được kết quả đó.

Cùng với ba nguyên lý trên, theo tôi còn cần nhấn mạnh thêm hai khái niệm: hiệu năng và hiệu lực.

– Hiệu năng là khả năng vận hành thông suốt, nghĩa là từ trung ương đến địa phương, từ cấp trên đến cấp dưới phải có sự tuân thủ nhất quán, không bị ách tắc ở bất kỳ mắt xích nào.

– Hiệu lực là yêu cầu pháp luật ban hành phải khả thi và được thực thi nghiêm túc. Luật pháp không chỉ dừng lại ở việc “ban hành” mà còn phải được vận dụng tốt trong thực tiễn, tạo ra kết quả cụ thể.

Tôi cho rằng, toàn bộ những nguyên tắc trên cần phải được vận dụng linh hoạt trong điều kiện hiện đại – tức là phải liên tục cập nhật với tiến bộ công nghệ, phù hợp xu hướng thế giới, và đặc biệt là tạo dựng được một môi trường làm việc văn minh, thân thiện, hiện đại.

Cuối cùng, đích đến của mọi nỗ lực cải cách hành chính là làm sao để mọi thành tựu công nghệ, mọi đổi mới trong vận hành của bộ máy nhà nước đều quay trở lại phục vụ người dân – với chất lượng ngày càng cao và mức độ hài lòng ngày càng lớn.

Có ý kiến cho rằng, cải cách thể chế không thể thành công nếu thiếu cải cách tư duy. Theo ông, cải cách tư duy trong bộ máy nhà nước cần bắt đầu như thế nào?

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng: Theo tôi, cải cách tư duy trước hết là phải mạnh dạn loại bỏ những khâu lạc hậu, trùng lặp, không còn phù hợp. Quan trọng hơn, chúng ta cần sẵn sàng chấp nhận cái mới – những điều chưa có tiền lệ, thậm chí là những việc mà trước đây ta từng nghĩ là không thể làm được.

Tư duy phát triển hôm nay phải dựa trên nghiên cứu, dự báo xu hướng, từ đó định hình tư duy kiến tạo – không bảo thủ, không trì trệ. Đó phải là tư duy tinh gọn, thông minh, tư duy công nghệ. Ngược lại, những lối tư duy gây cản trở như bảo thủ, trì trệ, gây khó dễ, tạo thêm chi phí không chính thức… cần được cắt bỏ càng sớm càng tốt, vì đó chính là những rào cản lớn nhất.

Chỉ khi thoát khỏi những tư duy cũ, chúng ta mới có thể tạo ra bước đột phá mới – một cách nghĩ mới dựa trên tinh thần thân thiện, phát triển, kiến tạo và đặc biệt là tư duy phục vụ, phục vụ nhân dân một cách vô điều kiện.

Làm sao để cải cách thực chất, không hình thức?

Ông vừa nhắc đến công nghệ, vậy trong thời đại chuyển đổi số và CCHC, bộ máy nhà nước cần thay đổi ra sao để không tụt lại phía sau khu vực tư nhân và thế giới?

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng: Tôi nghĩ rằng thế giới hiện nay đang đi rất nhanh. Họ phát triển dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến và chủ động làm chủ công nghệ lõi. Không những thế, họ còn vươn lên với tốc độ cao chưa từng thấy. Với bối cảnh như vậy, Việt Nam không thể bị bỏ lại phía sau. Nếu không thể trở thành người dẫn đầu, thì ít nhất chúng ta cũng phải bám sát người dẫn đầu.

Việc lựa chọn một mô hình phát triển phù hợp là điều tối quan trọng. Nếu không thể tạo ra mô hình tốt nhất, thì cũng phải làm được cái tốt thứ hai – tức là mô hình sát nhất với cái tốt nhất hiện có. Chúng ta cần có một ý chí mạnh mẽ như vậy.

Ngoài ra chúng ta có thể xây dựng một hệ sinh thái riêng của Việt Nam – một hệ sinh thái có tính đặc thù, nhưng đồng thời kết hợp được những thành tựu tốt nhất của nhân loại, những bài học thực tiễn hay nhất, sáng giá nhất và cả những nghiên cứu mới nhất.

Tôi cho rằng đây là sứ mệnh của giới khoa học, của ngành khoa học quản trị và của bộ máy hành chính nhà nước. Họ cần vào cuộc để cung cấp các mô hình quản trị hiện đại – tốt nhất, thông minh nhất, và phù hợp nhất với bối cảnh Việt Nam.

Tiếp theo, tôi nghĩ rằng các cấp, các ngành phải tạo được điều kiện tối đa để mọi thành phần trong xã hội cùng tham gia. Cần phải có sự đồng lòng, chung sức từ các bên: người dân, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý, cơ quan lãnh đạo.

Như tôi đã nói, Đảng và Chính phủ cần đóng vai trò là “kiến tạo”; doanh nghiệp phải là lực lượng sáng tạo; còn nhân dân phải là những người tham gia một cách tích cực, nhiệt tình và thực chất.

Khi tất cả những lực lượng này đồng hành cùng nhau, chắc chắn Việt Nam có thể tiếp cận được với những mô hình tốt nhất của thế giới. Và nếu làm tốt hơn nữa, chúng ta thậm chí có thể xây dựng được một mô hình mới – mang bản sắc riêng của Việt Nam – rất đáng để các nước học tập.

Theo ông, để đi vào trọng tâm thực thi hiệu quả, việc tinh giản biên chế và tinh gọn bộ máy làm sao để không rơi vào hình thức?

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng: Theo tôi, để công cuộc cải cách bộ máy nhà nước không rơi vào hình thức, điều quan trọng đầu tiên là phải đánh giá lại mô hình đang thực thi. Việc đánh giá này cần được tiến hành trên cơ sở khoa học – dựa vào các mô hình, nguyên lý quản trị đã được nghiên cứu, kiểm nghiệm và chứng minh trong thực tiễn.

Thứ hai, chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt từ các quốc gia đã xây dựng được những mô hình hành chính hiện đại – nơi bộ máy được vận hành gần như không cần sự hiện diện trực tiếp của con người, làm việc 24/7 thông qua các nền tảng công nghệ. Đây là xu hướng tất yếu mà chúng ta không thể đứng ngoài.

Thứ ba, điều quan trọng là phải mạnh dạn đưa ra những sáng kiến cải tiến mô hình hành chính của riêng Việt Nam. Trong đó, yêu cầu cốt lõi là tối thiểu hóa sự tham gia trực tiếp của con người vào các khâu xử lý công việc, và thay vào đó là tăng cường ứng dụng công nghệ để nâng cao tốc độ, giảm thiểu sai sót, loại bỏ những tiếp xúc không cần thiết, hạn chế phát sinh tiêu cực.

Chúng ta cần tiến hành đơn giản hóa thủ tục một cách toàn diện, đồng thời phải xây dựng một cơ sở dữ liệu lớn thống nhất, nhằm loại bỏ tình trạng trùng lặp, rườm rà và thiếu liên thông. Mỗi cơ quan, mỗi cấp, mỗi ngành phải được tích hợp trong một hệ thống vận hành đồng bộ – nơi mọi thông tin chỉ cần cung cấp một lần và được sử dụng nhiều lần, phục vụ đa mục tiêu.

Điều cuối cùng, nhưng cũng là điều then chốt, đó là toàn bộ hệ thống phải hướng đến một môi trường làm việc minh bạch nhất, đơn giản nhất, nhanh chóng nhất, hiệu quả nhất và với chi phí thấp nhất. Từ đó, mọi cá nhân trong bộ máy có thể phối hợp và vận hành hiệu quả trong một chỉnh thể hoàn thiện, đưa nền hành chính quốc gia tiến gần hơn với các chuẩn mực quốc tế hiện đại.

Theo ông, cần làm gì để cải cách bộ máy nhà nước không chỉ dừng ở nghị quyết, chiến lược mà thực sự đi vào cuộc sống, tạo chuyển biến thực chất cho nền kinh tế?

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng: Theo tôi, để công cuộc cải cách hành chính thực sự đi vào thực chất, trước hết cần thể chế hóa các nghị quyết hiện hành – hiện chúng ta có 4 nghị quyết lớn liên quan – thành các quy định pháp luật cụ thể. Những tinh thần, mục tiêu tốt đẹp nhất trong các nghị quyết đó phải được chuyển hóa thành văn bản hướng dẫn rõ ràng cho các bộ, ban, ngành, địa phương, doanh nghiệp và thậm chí đến từng hộ gia đình.

Mỗi cấp, mỗi ngành đều cần có trách nhiệm thực thi. Doanh nghiệp muốn phát triển bền vững cũng phải chủ động xây dựng mô hình, chương trình phù hợp, có đóng góp thực chất, đưa ra sáng kiến, cách làm mới. Những mô hình hay, hiệu quả từ các địa phương cũng nên được tổng kết, rút kinh nghiệm để nhân rộng trên cả nước. Làm như vậy vừa tiết kiệm được thời gian mày mò, vừa phát huy được tinh thần sáng tạo của toàn dân, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp.

Quan trọng hơn cả là phải có sự đồng hành chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước, người dân, doanh nghiệp và các đối tác quốc tế. Khi tập hợp được một “mặt trận cải cách” đồng bộ, toàn diện như vậy, tôi tin rằng chúng ta sẽ tạo nên cú hích mới cho nền hành chính quốc gia – hướng tới một nền hành chính văn minh, hiện đại, tận tụy và phục vụ nhân dân vô điều kiện.

Cuối cùng, ông có kỳ vọng gì vào một bộ máy hành chính mới – tinh gọn, hiệu quả, liêm chính – sẽ đồng hành và thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới?

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng: Theo tôi, nếu chúng ta xây dựng được một bộ máy hành chính mới, dựa trên nền tảng và cách tiếp cận hoàn toàn khác – chưa từng có tiền lệ – thì chắc chắn đây sẽ là một bộ máy hành chính đáp ứng đủ các tiêu chí: hiệu quả, hiệu năng, hiệu lực, minh bạch và thông minh. Đó sẽ là một bộ máy thực sự tận tụy phục vụ người dân và doanh nghiệp, nhằm tối ưu hóa lợi ích của họ. Đồng thời, bộ máy này còn đóng vai trò là điểm tựa kinh tế vững chắc cho các tầng lớp nhân dân, và thậm chí còn tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư quốc tế.

Một bộ máy như vậy sẽ góp phần nâng cao uy tín quốc gia, từ đó tạo ra những tác động rất lớn trong việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng. Tôi cho rằng năm nay, tăng trưởng GDP tối thiểu phải đạt 8,2%–8,3%, thậm chí là 2 con số, và hoàn toàn có khả năng duy trì mức tăng trưởng trong vòng 5–7 năm tới. Nếu làm được điều đó, chúng ta sẽ tạo ra được một đà tăng trưởng bền vững, đóng vai trò như một bệ phóng vững chắc cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự vươn mình mạnh mẽ của đất nước.

Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!

Nguồn: Tạp chí Đầu tư Tài chính

TIN KHÁC

Tin mới nhất